Friday, July 22, 2022

𝗔 𝗖𝗛𝗔𝗡𝗚𝗘𝗗 𝗠𝗔𝗡 - Patrick Scaffetti

MỘT NGƯỜI ĐÃ THAY ĐỔI 



Trích từ tạp chí 𝗔𝗟𝗙𝗥𝗘𝗗 𝗛𝗜𝗧𝗖𝗛𝗖𝗢𝗖𝗞’𝗦 𝗠𝗬𝗦𝗧𝗘𝗥𝗬 𝗠𝗔𝗚𝗔𝗭𝗜𝗡𝗘 số tháng Tám, năm 1978.

Dịch giả: Vĩnh Bá

--------------
Hạ sỹ cảnh sát John Trask, hết phiên trực, dừng lại trước ngôi nhà của người hàng xóm, quan sát cái thảm cỏ luộm thuộm lác đác vài hoa bồ công anh, ô kính cửa sổ còn vệt dơ, và những tờ rơi quảng cáo vương vãi trên hàng hiên. Anh thấy chiếc xe Chrysler màu lục vấy bẩn đỗ trên lối xe ra vào và một dãy thùng rác đầy ắp xếp dọc theo hàng rào. Buồn bã, Trask lắc đầu, ngạc nhiên thấy nỗi đau khổ làm biến đổi một người như thế nào.
Stan Shields đã từng chăm sóc thảm cỏ và khu nhà của y rất kỹ lưỡng đến độ những người hàng xóm trong khu dân cư phải cảm thấy xấu hổ. Trong khi những người kia chỉ làm công việc bảo dưỡng ở mức tối thiểu vào dịp cuối tuần, thì Stan bò quanh thảm cỏ, tay cầm sẵn bay và kềm cắt, giẫy cỏ, cắt tỉa cây. Y sơn trắng những đường viền cửa mỗi mùa xuân và rửa chiếc xe khi nó đã sáng bóng rồi. Các bà vợ trong khu dân cư này thường đem Stan Shields ra làm gương cho các ông chồng lười việc.
Mọi sự quả thực đã thay đổi, Trask nghĩ thầm. Anh không còn thấy Stan làm việc bên ngoài nhà kể từ khi kẻ lái xe đâm người rồi bỏ chạy khiến Norma, vợ của Stan, thiệt mạng cách đây 3 tháng. Sau bi kịch này, Trask và vài người hàng xóm cố kéo Stan ra khỏi cơn đau khổ của y, nhưng y không muốn dự phần vào những đề nghị ân cần ấy. Y nhã nhặn nhưng kiên quyết nói rằng y chỉ muốn một mình ôm nỗi đau buồn, và rồi y trở thành một kẻ sống ẩn dật đúng nghĩa.
Nhưng ai trách cứ được con người tội nghiệp này? Trask tự hỏi. Stan và Norma lấy nhau đã hơn 20 năm. Không con cái, họ gắn bó với nhau theo một cách đặc biệt.
Trask tần ngần thêm một lát, rồi quyết định rằng điều anh sắp làm có thể bị cấp trên khiển trách, nhưng phép cư xử đúng đắn buộc anh phải làm tới. Anh hít vào thật sâu, sải bước theo lối đi đằng trước nhà, rồi bấm chuông.
Không ai trả lời. Viên cảnh sát nhấn chuông lần nữa, và cửa bật mở. Trask hấp háy mắt nhìn người đàn ông đứng trong bóng tối nhờ nhờ đằng sau lớp cửa lưới, tự hỏi có phải đây là Stan Shields, người hàng xóm sát bên nhà suốt 13 năm qua.
“Chào John,” chủ nhà nói. “Anh khỏe chứ?”
Sự thay đổi nơi khu nhà của người hàng xóm này đã không chuẩn bị tinh thần để cho Trask đón nhận sự thay đổi nơi chính Stan Shields. Đã từng là người ăn mặc chải chuốt, người đàn ông trước mặt anh đang mặc một cái quần rộng thùng thình dơ dáy và một cái áo phông bẩn thỉu. Một đầu tóc bạc bù rối, và mảng râu không cạo làm sẫm màu da ở phần dưới gương mặt.
“Tôi vẫn ổn, Stan ạ,” Trask nói. “Còn ông thì sao? Dạo gần đây tôi ít gặp ông.”
“Tôi cũng ổn. Anh cần tôi giúp gì không?”
“Tôi muốn nói chuyện với ông một lát. Tôi vào được chứ?”
Stan nhún vai. “Được chứ, sao lại không?” Y mở rộng tấm cửa lưới cho Trask bước vào.
Khi anh bước vào phòng khách, Trask cố giữ vẻ mặt tỉnh bơ nhưng anh cảm thấy sốc trước sự đổi thay. Norma Shields đã từng giữ một ngôi nhà sạch bóng. Trước đây khi Trask có dịp đến nhà, những món nội thất thì sáng bóng và không một cái gối dựa hay món đồ trang trí nào để lệch chỗ. Căn nhà hồi ấy gần như mang vẻ không có người ở. Giờ đây nó có vẻ như đang bị một bầy đàn man rợ chiếm đóng.
Áo quần bẩn, báo chí, những vỏ lon bia vương vãi khắp nơi. Thảm trải nhà ố bẩn và đầy vụn bánh mì. Mạng nhện rủ xuống từ trần nhà. Một trận bóng đá náo nhiệt đang phát từ cái Ti-vi trong góc nhà.
Stan vặn nhỏ bớt âm thanh. “Anh ngồi đi,” y nói, lùa một chồng báo trên ghế xuống sàn nhà. “Uống bia nhé?”
“Không, cảm ơn ông.” Trask không nhớ có lần nào thấy người hàng xóm này uống gì khác hơn một lon Cô-ca.
Stan ngồi phịch xuống ghế sofa và gác một chân lên mấy cái gối tựa. “Thế anh muốn nói chuyện gì?” y hỏi.
“Sáng nay chúng tôi đã bắt được tên lái xe tông chết Norma,” Trask nói ngay không cần rào đón.
Stan nhướng mày, lộ vẻ ngạc nhiên. “Đã bắt được hắn,” y hạ giọng.
Viên cảnh sát gật đầu. “Hắn chưa nhận tội, nhưng không nghi ngờ gì nữa. Một tên côn đồ 23 tuổi. Hắn đã từng có khá nhiều tiền án. Xe của hắn có kiểu dáng và màu sắc đúng như mô tả của các nhân chứng, và cản trước bị lõm vào. Tên này không có bằng chứng ngoại phạm cho đêm ấy. Hắn đã li dị và sống một mình. Chúng tôi có được manh mối từ hàng xóm sống cạnh nhà hắn. Hắn giấu xe trong ga-ra suốt 3 tháng qua. Hắn không dám đem xe đi sửa cản trước.”
“Hiện hắn ở đâu?”
Trask thở dài tỏ vẻ chán ngán. “Tôi không muốn nói ra chuyện này, Stan ạ. Nhưng hắn hiện được tại ngoại sau khi đóng tiền thế chân. Như thế cũng công bằng cho ông. Hắn đã có một luật sư sắc sảo, và hắn sẽ được tự do cho đến ngày xử án. Nhưng ông đừng lo—hắn không thoát tội được đâu. Thoát sao được với bằng chứng chúng tôi hiện có.”
“Hắn tên gì?”
“Stan này, về mặt kỹ thuật lẽ ra tôi không nên cho ông biết chúng tôi đã tóm được hắn, nhưng tôi biết ông đã đau khổ như thế nào kể từ sau—” Trask cố tìm từ thích hợp “—tai nạn. Tôi nghĩ biết được thủ phạm đã bị tóm sẽ giúp ông lấy lại cuộc sống thăng bằng. Nhưng cứ để những việc còn lại cho luật pháp. Quan trọng gì một cái tên?”
“Vì tò mò thôi, John à, cho tôi biết tên hắn.” Giọng của Stan không lộ chút cảm xúc nào.
“Ôi, thôi cũng được. Chẳng bao lâu nữa tên hắn cũng lên báo. Hắn là Sam Lavis. Hắn sống trên miệt Dexter.”
“Và hắn được tại ngoại bằng tiền thế chân?”
“Chỉ đến ngày ra tòa thôi. Tôi cam đoan với ông thế nào hắn cũng vào tù.”
Stan nhấc lon bia lên khỏi tay dựa của đi-văng, đưa lên môi, ngửa cổ, nốc ừng ực. Y dùng lòng bàn tay quẹt qua môi rồi nói, “Cảm ơn, John. Tôi rất cảm kích sự thành thật của anh. Biết tên lái xe ấy đã bị bắt khiến tôi cảm thấy dễ chịu trong lòng hơn.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” Trask nói. “Chính vì thế mà tôi đến cho ông hay. Chuyện như thế có thể khiến người ta mãi day dứt khôn nguôi.”
Stan nhìn chăm chú cái vỏ lon bia trong tay và gật đầu.
“Tôi biết ông đã phải chịu đựng cái mất mát quá lớn này, Stan, và tôi không thể trách ông được. Nhưng đến lúc nào đó ông phải bình tâm lại để sống tiếp. Ông vẫn còn trẻ. Ông nên nghĩ đến việc đi làm trở lại và ra ngoài nhiều hơn. Nhớ cho, Marge và tôi ở ngay bên cạnh nhỡ khi nào ông cần chúng tôi giúp gì đó.”
“Đương nhiên. Và cảm ơn lần nữa, John.”
* * *
Ngay sau khi John ra về, Stan tắt Ti-vi. Cái áp lực cũ vỗ đập từng nhịp nay đang bóp chặt lấy đầu y như thể hai thanh sắt đang đâm xuyên qua thái dương. Suốt mấy tháng qua, y hầu như đã quên cái cảm giác này, nhưng nay nó tái phát thật dữ dội. Y ngã vật xuống đi-văng, nhắm mắt lại.
Nhưng vừa bước vào cái bóng tối riêng tư của y thì cảnh tượng quen thuộc tái hiện trong đầu y rất sinh động. Y nhìn Norma từ trong siêu thị đi ra với chỉ một gói hàng mua sắm ôm trước ngực. Luôn luôn là một người cẩn trọng, bà dừng ở mép lề đường, xem chừng xe cộ ở cả hai hướng, rồi bước xuống đường. Một tiếng động cơ gầm lên. Giật mình, bà nhìn sang phải, rồi khựng lại vì kinh hoàng. Một chiếc xe màu beige lao tới, hất bà lên cao đến mấy feet, rồi vụt chạy mất, để lại bà dập nát và đổ máu trên vỉa hè. Dầu đánh bóng đồ gỗ, nước hoa khử mùi không khí, và bột giặt vương vãi quanh người bà.
Nằm trên đi-văng, tim đập thình thịch và trán toát những giọt mồ hôi lóng lánh, Stan biết rằng y sẽ phải làm gì đó, nếu không y sẽ không bao giờ có thể sống với chính mình. Ý tưởng này khiến y lợm giọng, nhưng không tránh vào đâu được. Quá nhiều điều đang rơi vào thế nguy. Y sẽ phải hành động trước khi luật pháp kêu đòi công lý của chính nó.
Y ngồi dậy khỏi đi-văng, cố lờ đi những triệu chứng của mối lo âu, rồi đi theo hành lang đến phòng ngủ. Y kéo cái hộc dưới cùng của bàn viết, lục lọi trong mớ đồ tạp nham, lấy ra khẩu súng lục y đã thu giấu trong đó. Y quan sát kỹ khẩu súng và biết chắc súng đã nạp đạn. Khẩu súng này không được đăng ký và chưa từng bắn phát nào. Stan vẫn nghĩ có ngày y sẽ dùng đến súng này, nhưng đây không phải là cái mục đích y đã từng nghĩ đến.
Y đem khẩu súng vào nhà bếp, để nó lên cái bàn bề bộn đồ đạc, rồi trở lại phòng khách lôi cuốn danh bạ điện thoại từ trên tầng kệ xuống. Y lướt nhanh qua vần L, tìm được Lavis, Samuel, và ghi nhớ cái địa chỉ bên phải cái tên. Đồng hồ tay của y chỉ 6:38. Còn dư dả thời gian để lau chùi khẩu súng và vạch kế hoạch trước khi trời đủ tối để ra khỏi nhà.
* * *
Khoảng sau 11 giờ một chút, Stan Shields lách người ngồi vào sau tay lái và bắt đầu đoạn đường đến thành phố Dexter kế cận. Áp lực từ hai thanh sắt ép vào thái dương của y đã trở thành sức ép của một cái ê-tô. Stan chưa bao giờ là một người đặc biệt quả quyết, nhưng một cảm nhận mới mẻ về sự có chủ đích trở thành kim chỉ nam cho hành động của y.
Chẳng khó khăn gì để y tìm đúng địa chỉ. Đấy là một căn nhà trệt bằng gạch khá giống nhà của y. Có ánh đèn mờ mờ ở đâu đó trong nhà. Stan đỗ xe bên đường, mang găng tay vào, rồi đi bộ ngược về phía căn nhà. Sức nặng của khẩu súng trong túi gây cảm giác là lạ. Y biết y sắp hành động liều lĩnh, nhưng y sẽ mất gì đã chứ?
Stan bước theo lối xe ra vào và lặng lẽ xoay thử cái nắm cửa hông. Y ngạc nhiên khi thấy cửa mở ra, nhưng rồi đây là khu dân cư yên tĩnh và những gia chủ có lẽ bị ru ngủ bởi một cảm thức về sự an ninh giả tạo. Hoặc có lẽ Sam Lavis đang lo lắng những việc gì khác nên quên khóa cửa.
Y bước vào nhà, rút súng ra. Y đứng im một lát, cảm thấy may mắn là nhà không nuôi chó. Chậm rãi, y bước vào bếp. Ngôi nhà im lặng. Y len lén đi từ bếp ra hành lang và nhìn thấy một ánh đèn chiếu ra từ một căn phòng phía cuối nhà. Y thận trọng tiến về chỗ ánh đèn và nghe tiếng người đang ngáy.
Căn phòng bày biện như một phòng riêng tư, và một người cao gầy đang ngồi trên ghế, ngủ say, đầu ngả ra sau, miệng há hốc. Một chai rượu Scotch và một cái cốc để trên cái bàn bên cạnh hắn.
Stan không dừng bước để ngẫm nghĩ về vận may của y. Y vào phòng tiến về phía Lavis. Cẩn thận, y đặt khẩu súng vào bàn tay mềm nhũn của kẻ say rượu, dí những đầu ngón tay vào báng súng, nòng súng, cò súng. Lavis nói mớ, hai cẳng chân co giật. Như một cảnh phim quay chậm, Stan nhấc bàn tay và khẩu súng lên ngang thái dương của Lavis vừa lúc Lavis mở mắt. Bốn mắt gặp nhau, và trong thoáng chốc ngắn ngủi ấy, vẻ mặt của Lavis chứng tỏ hắn đã hiểu. Stan bóp cò.
Khi tiếng súng còn âm vang trong đầu, Stan thả rơi khẩu súng, thoát nhanh ra khỏi nhà, khép cửa lại sau lưng, rồi đi bộ tới chỗ đỗ xe. Sau khi ngồi vào sau tay lái, y lột đôi găng ra, ném vào ghế bên cạnh. Y xoay chìa khóa khởi động bằng những ngón tay run rẩy, lái xe lìa khỏi mép lề.
Mọi sự diễn biến hoàn hảo, y nhủ thầm; y đã an toàn. Sẽ không ai thắc mắc về sự thể rằng Lavis thà tự sát hơn là phải đối mặt với một phiên xử và bản án tất yếu cho một tội ác ghê gớm. Không có cách gì để liên kết khẩu súng không đăng ký với Stan. Vận may đã theo y từ đầu đến cuối.
Nhưng lý lẽ không trấn áp được nỗi sợ của y.
Chỉ khi rẽ vào lối vào nhà và nhìn thấy cái thảm cỏ um tùm trước nhà thì y mới cảm thấy an tâm. Lớp cỏ hẳn đã được cắt tỉa gọn gàng nếu như Norma còn sống, y nghĩ thầm. Nhưng những ngày ấy đã vĩnh viễn qua rồi. Y đỗ xe, nhét đôi găng vào túi áo khoác, rồi mở cửa vào nhà. Y hít thở thật sâu, hít vào mũi bụi bặm và những mùi hôi kỳ lạ. Không còn hương chanh nữa. Y quan sát đống đồ bề bộn, biết rằng sẽ không bao giờ còn nghe châm ngôn của Norma, “Có chỗ cho mọi thứ, và thứ nào phải đúng chỗ thứ ấy.”
Mỗi lúc mỗi cảm thấy dễ chịu hơn, Stan bước nhanh vào phòng ngủ và thay vào chiếc quần bẩn nhưng thoải mái. Y vứt số quần áo thay ra thành một đống dưới chân giường. Y trở lại căn bếp, lấy trong tủ lạnh ra một lon bia, kéo khoen mở nắp, nốc hết nửa lon. Norma đã chẳng bao giờ cho phép bất kỳ thức uống có cồn nào ở trong nhà. Stan mỉm cười. Cơn nhức đầu đã hết, và lon bia làm dịu cái dạ dày.
Chỉ có một nỗi cay đắng làm hỏng sự hài lòng của Stan. Khi mang lon bia vào phòng khách, y nghĩ thầm, ta cũng đã có thể tự tay giết vợ còn hay hơn là mướn cái gã Lavis vụng về ấy.

No comments:

Post a Comment