Sunday, June 19, 2022

𝗗𝗔𝗡𝗚𝗘𝗥—𝗪𝗢𝗠𝗘𝗡 𝗔𝗧 𝗪𝗢𝗥𝗞 - Miriam Allen deFord

COI CHỪNG—PHỤ NỮ ĐÃ VÀO VIỆC

(trích nguyệt san 𝗘𝗟𝗟𝗘𝗥𝗬 𝗤𝗨𝗘𝗘𝗡’𝗦 𝗠𝗔𝗚𝗔𝗭𝗜𝗡𝗘, số tháng 12 năm 1956)

Dịch giả:Vĩnh Bá

------------------


“Ăn trứng đi, Paulie,” Edna nói. “Con sẽ làm cho ba trễ giờ đấy.”
“Hôm nay con muốn đi học,” thằng bé Paul nghiêm trang nói. “Con sắp làm chưởng lớp.”
“Trưởng lớp, con yêu ạ. Rick, hôm nay anh có về sớm không?”
“Nếu có thể. Hôm nay là thứ Sáu, em biết đấy—bảng lương của trường Jenk dài đến mức phải mất hàng tiếng mới xử lý xong. Anh nhớ hồi đó bảng lương chỉ chừng 10.000 đô-la, nay đã gần 100.000 đô—khá tốt cho một thị trấn nhỏ như này, phải không?”
“Và chồng em lại là thủ quỹ của ngân hàng duy nhất!” Edna tự hào.
“Anh chỉ là con ếch nhỏ trong một hồ nước lớn mà thôi.”
Chuông cửa trước reo.
“Ôi trời!” Richard thốt lên. “Mới giờ này mà Julia đã đến rồi sao?”
“Trời ạ, không phải đâu—ít nhất một giờ nữa cô ấy mới đến.”
“Lần này thì cô ấy muốn gì?”
“Này Rick, nói thế thì không được tử tế. Paulie, chạy ra mở cửa. Nếu có ai mời mua gì đó thì bảo mẹ đang bận lắm.”
Richard mỉm cười có vẻ hối lỗi.
“Ừ, anh biết rồi, em yêu. Anh biết—Julia là bạn thân nhất của em. Nhưng cô ấy khiến anh bối rối. Mới nói ra nửa câu đã bị cô ấy cướp lời.”
“Julia là một cô bạn tuyệt vời,” Edna khẳng định. “Dù sao, hôm nay cô ấy chỉ muốn vài lời khuyên về áo quần. Cô ấy—”
Paulie trở lại.
“Có ba ông,” thằng bé loan báo. “Họ muốn gặp ba.”
“Ba ư? Chuyện gì vào giờ này nhỉ?”
“Họ nói ông Fairchild.”
“Được rồi, để ba ra xem. Ăn sáng đi Paulie, nếu con muốn ba đưa đến trường. Đúng 12 phút nữa ba sẽ đi đấy.”
Có ba ông, đúng thế, một người cao và gầy, hai người kia thấp và mập hơn. Qua khung cửa trước mà Paulie để mở, Richard thấy chiếc xe sedan của họ đỗ bên ngoài, kế bên chiếc coupé của anh.
“Ông Fairchild?” người cao gầy nhã nhặn hỏi. “Chúng tôi gặp ông một lát được không?”
Richard dẫn đường vào phòng khách, hơi ngượng khi chợt thấy tay vẫn đang cầm một mẩu bánh mì nướng. Anh len lén để nó lên chiếc bàn bên cạnh điện thoại.
“Tôi có thể giúp gì cho các ông?” anh hỏi. “Nếu là công việc, chúng ta có thể bàn bạc tại ngân hàng. Sắp đến giờ tôi phải đi làm rồi đây.”
“Công việc,” người phát ngôn cho cả bọn nói khẽ.
Richard bỗng thấy mình đang nhìn vào họng một khẩu súng lục đang chỉa vào đầu anh.
“Chuyện gì—” Giọng của anh trở thành rất khẽ.
“Cứ bình tĩnh. Gọi vợ con ông vào đây.”
“Edna,” Richard trầm giọng. Khỏi cần gọi—Edna đã đứng nơi khung cửa, Paulie đang níu chặt lấy mẹ. Một trong hai gã lùn mập dùng súng canh chừng hai mẹ con. Thấy cái gật đầu của tên chỉ huy, gã lùn mập kia khóa cửa chính lại, rồi đi qua phòng ăn và nhà bếp để canh chừng cửa sau.
Richard cố tập trung ý nghĩ. Mọi sự quá đột ngột. Anh chỉ nghĩ được một điều là những kẻ này không có vẻ gì là bọn cướp; chúng ăn mặc lịch sự, mày râu nhẵn nhụi, và tên cao gầy—hai tên kia chưa mở lời—nói năng như một người có học.
“Cứ im lặng lắng nghe thì sẽ không ai bị hề hấn gì.” Người phát ngôn nói vẫn với giọng điềm tĩnh. “Chúng tôi đã bàn tính chuyện này cặn kẽ đến từng chi tiết—đã bỏ ra hàng tháng để lên kế hoạch. Hãy làm theo lời chúng tôi thì mọi chuyện sẽ rất êm đẹp. Chẳng hại gì cho ông cả—món tiền đã được bảo hiểm và dù sao ông cũng chỉ là người làm công ăn lương, dù chức danh của ông là gì đi nữa.”
“Các ông định làm gì chồng tôi?” Edna lớn tiếng.
“Không làm hại gì đến ông nhà—nếu ông ấy chịu hợp tác.” Tên đầu đảng quay sang cô nói rất lịch sự nhưng ngón tay vẫn để trên cò súng. Richard liếc nhìn Paulie. Thằng bé đứng há hốc miệng, say mê đến độ không chút sợ hãi.
“Tôi sẽ cho ông biết toàn bộ quy trình, để ông rõ mọi sự sẽ diễn biến ra sao. Ông Fairchild này, ông sẽ đi cùng tôi đến ngân hàng trong xe của tôi. Ông sẽ mở cửa cho tôi vào, cùng hai người trong bọn chúng tôi hiện đang chờ ở đó. Ông có cả thảy bảy nhân viên—tôi đều biết họ và biết giờ nào họ sẽ đến làm việc. Chúng tôi sẽ giam tất cả lại khi họ bước vào—ông sẽ là người đầu tiên—ở trong Phòng Giám Đốc, và sẽ giữ ông lại đó trong một giờ.”
“Tại sao?” Richard khản giọng hỏi. Bất giác mắt anh hướng về cái điện thoại.
“Bởi vì phải một giờ thì máy chấm công mới mở hầm chứa tiền,” gã người cao nhã nhặn nói, “đấy chính là nơi cất số tiền béo bở—tiền lương của hệ thống Jenk. Khi chúng tôi đã lấy xong tiền và sẵn sàng để đào tẩu, người sau cùng trong chúng tôi sẽ mở khóa Phòng Giám Đốc. Sau đó các ông muốn gọi điện cho ai tùy ý. Khi ấy chúng tôi đã thay biển số xe rồi—nên lát nữa khi rời khỏi đây, ông không cần ghi nhớ biển số xe. Dẫu sao, khi cảnh sát tìm thấy xe này thì chúng tôi đã chuyển sang xe khác lâu rồi.”
“Nhưng nếu ai chạm đến cái điện thoại trong Phòng Giám Đốc trước khi chúng tôi cho ông biết chúng tôi đã xong việc, chúng tôi sẽ biết ngay—chúng tôi sẽ mở sẵn một máy nhánh và sẽ chờ nghe. Máy này là cách duy nhất để các ông nhắn tin ra ngoài—còn cửa sổ thì quá cao. Tôi nhắc lại, nếu ai động đến cái điện thoại ấy, một người trong bọn tôi sẽ điện cho hai người được phân công ở lại đây. . . Bây giờ thì tôi tin chắc ông sẽ đủ tỉnh táo về việc này, thưa ông Fairchild. Bởi vì nếu chúng tôi đành phải báo tin cho người của chúng tôi, họ sẽ bắn bà Fairchild và con trai của ông trước khi họ rời đi.”
Richard trố mắt, mặt trắng bệch.
Gã cao gầy lại liếc nhìn Edna và khẽ mỉm cười.
“Và tôi biết bà Fairchild cũng sẽ tỉnh táo để không làm bất kỳ hành động dại dột nào để giải cứu ông. Nhưng chúng tôi sẽ không bày cám dỗ ra trước mắt bà ấy; ngay khi ông và tôi rời khỏi đây, những người bạn tôi đây sẽ trói bà và thằng bé lại. Hai mẹ con sẽ không bị gì, nhưng họ sẽ không thể tới gần cửa lớn hay cửa sổ, hoặc cái điện thoại này.”
Một quãng im lặng khó thở. Thằng bé Paulie là người phá vỡ cái im lặng này.
“Nhưng hôm nay cháu phải đến trường!” nó tru tréo. “Cháu sắp được làm chưởng lớp!”
Cảm ơn trời đất, Edna nghĩ thầm, về những chương trình TV đầy kịch tính! Nếu những chương trình này không làm được gì khác, thì chúng cũng biến việc này thành một trò chơi mà trong đó một lời đe dọa giết người không hề gây hoảng sợ cho một đứa bé 7 tuổi.
“Rất tiếc, con trai.” Tên chỉ huy mỉm cười thân thiện với nó. “Cháu sẽ trở thành anh hùng khi cháu đi học chiều nay, như thế càng vui hơn nữa.”
“Còn anh, Richard Fairchild, anh đừng cố làm anh hùng!” Edna bất ngờ lớn tiếng. “Em muốn một người chồng còn sống. Hãy làm theo lời ông này.”
“Bà quả là một người sáng suốt,” gã cao lớn hài lòng. “Nào, ông Fairchild, ta đi thôi.”
Richard mở miệng định nói, nhưng kìm lại được. Anh và Edna nhìn nhau một lúc lâu. Rồi, bị dí súng vào lưng, anh lại mở cửa lớn ra.
“Các ông trói luôn thằng bé này sao?” Edna van vỉ với kẻ vẫn đang canh chừng cô khi âm thanh cuối cùng của chiếc xe tắt dần ở đằng xa. “Nó sẽ ngoan và chỉ ngồi đây chơi mà thôi, phải không Paulie?”
“Phải làm theo lệnh sếp,” gã trả lời. Giọng gã cũng nhẹ nhàng, mặc dù nó thiếu mất cái âm sắc lịch sự của tên chỉ huy. Gã huýt sáo, và tên kia, nãy giờ đang canh cửa sau, xuất hiện. Tên này cũng đang cầm súng. Trong tay kia hắn cầm một cuộn dây điện. Edna nhận ra—dây của cái bàn ủi.
“Sẽ rất vui, phải không chú bé?” gã nói để lấy lòng. “Giống như chơi trò Mọi Da đỏ vậy.” Paulie, mắt mở lớn, đành chịu để bị trói chặt vào một cái ghế lớn màu lục. “Nào, đồ chơi gì đó của cháu đâu hết? Chú sẽ để hai tay cháu tự do để cháu có thể chơi đồ chơi.”
“Ở đó,” Paulie chỉ tay vào các món đồ chơi. “Chú sẽ lột da đầu mẹ cháu hả?”
Cả hai gã cùng cười lớn, và Paulie tỏ ra phật ý.
“Không có đâu, cháu ạ,” gã kia nói. “Đến phiên bà. Này Bud, cậu có sẵn dây để trói bà chủ rồi chứ?”
Bud thọc tay trái vào túi quần bên hông lôi ra một sợi dây điện dài cắt ra từ máy hút bụi.
Trước họng súng đầy đe dọa, Edna bước tới chiếc ghế phía bên kia lò sưởi.
“Thoải mái rồi chứ, thưa bà? Đây này, tôi kê cái bàn nhỏ này bên cạnh bà với thuốc lá và tạp chí. Đấy, không đến nỗi tệ, phải không? Sẽ không ai làm hại bà, chừng nào ông nhà tỏ ra sáng suốt. Chừng một giờ là xong thôi.”
“Nếu như điện thoại reo?” Edna hỏi.
“Cứ hy vọng nó không reo, thưa bà. Bà đã nghe ông chủ nói gì rồi chứ? Bà cứ hy vọng sẽ không phải là cuộc gọi của ông nhà. Còn bất kỳ cuộc gọi nào khác, tôi sẽ bảo là gọi nhầm số.”
Hắn chợt thấy miếng bánh mỳ nướng Richard đã để bên cạnh cái điện thoại.
“À, giờ mới nhớ. Các người đã ăn sáng rồi cả chứ?”
Paulie gật đầu. Đôi mắt nó theo dõi mọi động tác của hai tên cướp; mặt nó rạng rỡ vì phấn khích.
“À, bọn này thì chưa. Bud, vào trong bếp tìm xem có gì ăn không.”
Bud, kẻ khéo tay, ngoan ngoãn vâng lời.
Edna lấy từ trong hộp ra một điếu thuốc, và tên đang canh giữ cô nhanh nhẹn bật lửa giúp cô. Vì cả hai mẹ con đã bị trói chặt, nên hai gã đã giắt lại súng vào bao da.
“Các anh sẽ không thoát được đâu, anh biết đấy,” cô nói, cẩn thận giữ cho giọng nói đừng run. “F.B.I. sẽ truy tìm các anh, không phải chỉ cảnh sát địa phương mà thôi đâu. Các anh đã bắt cóc chồng tôi.”
“Bà cứ để chúng tôi lo liệu. Sếp biết sếp đang làm gì. Sếp đã tính toán hết rồi. Kiếm được gì không Bud?”
Chúng ngồi vào hai chiếc ghế đối diện với hai người bị trói, ngấu nghiến hai cái sandwich kẹp thịt và uống cà phê. Paulie nhìn chúng, vẻ say mê. Edna hút thuốc nối. Không ai nói gì cả.
Chuông cửa reo.
Edna hít vào một hơi thật sâu.
“Bạn tôi đấy,” cô nói khẽ. “Cô ấy sẽ không chịu bỏ đi đâu. Chúng tôi hẹn nhau sáng nay.”
“Lẽ ra bà phải cho chúng tôi biết trước,” đồng bọn của Bud nói như trách. Hắn đứng im suy nghĩ một lát. “Thôi được, thưa bà, từ cửa trước cô ta sẽ không thấy gì trong này. Cởi trói cho bà chủ, Bud.” Bud nhanh chóng vâng lệnh.
“Nào, bà—” Hai khẩu súng lại giương ra. “Bà đi tới cửa, tôi sẽ ở ngay sau lưng bà, đằng sau tấm màn cửa này. Bà bảo bạn bà—rằng thằng bé đang ốm, bác sỹ nói là bệnh gì đó dễ lây, và cô ấy đừng nên vào nhà. Và nhớ cho, tôi sẽ đứng ngay chỗ đó. Nếu bà bóng gió gì đó, tôi sẽ cho bà biết tay.”
“Tôi phải nói chuyện với bạn một lát, nếu không cô ấy sẽ nghi ngờ.” Edna duỗi thẳng hai cẳng chân đang tê dại.
“Được, nhưng hãy thận trọng.”
Từ nơi bậc thềm, không ai thấy được gì đằng sau tấm màn cửa. Nhưng Edna có thể cảm nhận mũi súng đang áp nhẹ vào ngay dưới xương bả vai bên trái.
Là Julia. Edna chuẩn bị tinh thần.
“Julia!” cô vui mừng reo lên. “Khỏe không? . . . Nhưng này, bạn thân ạ, thật không may, mình không để bạn vào nhà được. Paulie đang ốm.”
“Ốm?” Julia tỏ vẻ khó hiểu. “Nhưng để mình—”
“Không được, bệnh dễ lây, bác sỹ nói. Mình không thể chểnh mảng để mấy đứa con bạn lây bệnh theo.”
Julia tròn xoe mắt.
“Rick đã tới ngân hàng trước khi mình gọi bác sỹ, nên anh ấy không thể báo cho bạn biết,” Edna gấp gáp nói tiếp. “Bọn mình sẽ đưa Paulie tới Bệnh Viện Farnham ngay khi bác sỹ có thể thu xếp một giường trong khu bệnh nhi.”
“Mình có thể làm gì để giúp không?” Julia sốt sắng. Mũi thép bên dưới xương bả vai của Julia ấn sâu thêm một chút.
“Có đấy, có một việc, nếu bạn sẵn lòng,” Edna nhanh nhẩu trả lời. “Trưa nay khi bạn đến trường đón mấy đứa con của bạn, làm ơn đến gặp cô giáo của Paulie là Cô Schermerhorn để báo cho cô ấy biết. Mình không muốn báo qua điện thoại—sợ có người tình cờ nghe được, và bạn cũng biết nghe đến bệnh dễ lây thì người ta hoảng hốt như thế nào.”
"Cô Schermerhorn?”
“Vâng, bạn biết đấy—cô giáo mới chuyển đến năm nay.”
“Mình sẵn sàng nói giúp,” Julia nói. “Để mình gọi đến ngân hàng báo tin cho Richard giùm bạn nhé, hay là bạn đã gọi rồi?”
“Đừng, sáng nay anh ấy rất bận, với lại mình không muốn anh ấy lo lắng. Mình sẽ gọi cho anh ấy sau khi biết tin về bệnh viện, nhưng có lẽ sau khi bạn gặp cô Shermerhorn rồi mới có tin.”
“Mình sẽ không chờ đến trưa đâu, Edna—mình sẽ lái xe đến báo cho cô giáo ngay bây giờ.”
“Ô, thế thì càng hay! Mình rất biết ơn bạn. Và Julia này, bạn có hiểu vì sao mình không mời bạn vào nhà không? Mình sẽ không tha thứ cho chính mình nếu mình khiến mấy đứa con bạn lây bệnh.”
“Mình hiểu chứ, Edna. Đừng lo. Bạn hãy bảo trọng.”
“Ồ, mình sẽ không sao.”
Edna thấy mình run lẩy bẩy khi cô đóng cửa lại.
“Bà huyên thuyên quá lâu,” gã cướp xẵng giọng. “Và nhờ cô ấy đi báo với cô giáo là thằng bé đang bệnh nghĩa là sao, khi mà chiều nay nó đã có thể đi học lại? Bà không cần phải đa sự như thế."
“Tôi muốn cô ấy cảm thấy đây là chuyện nghiêm trọng để cô ấy không phật lòng vì tôi không mời vào nhà,” Edna đấu dịu. “Tôi phải bịa ra một việc vặt gì đó cho cô ấy làm.”
Gã ấy đẩy cô vào lại trong phòng khách. Cô ngồi phịch xuống ghế thở phào nhẹ nhõm và để cho gã ấy trói mình trở lại.
“Có phải Dì Julia không?” Paulie hỏi từ nơi ghế của nó. “Mẹ bảo dì ấy con đang ốm, như ông này vừa nói hả?”
“Đúng thế, con yêu. Và dì ấy nói dì rất tiếc.”
Paulie cựa quậy trên ghế.
“Con mệt lắm,” nó than thở. “Khi nào họ mới thả chúng ta ra?”
“Con muốn xem TV không?” mẹ nó hỏi. “Làm ơn mở giúp TV cho cháu nó.”
“TV chẳng có gì con thích xem,” Paulie rên rỉ. Trò chơi đang bắt đầu tẻ nhạt dần.
“Không còn lâu nữa đâu,” Bud dỗ dành, nhìn đồng hồ tay. “Cháu là một trinh sát viên dũng cảm, và chẳng bao lâu nữa một đội kỵ binh sẽ đến đánh tan bọn Da đỏ . . . Tôi cũng có con còn nhỏ,” gã tâm sự với Edna. “Tôi hiểu bọn nhỏ cảm thấy ra sao.”
“Chặng 10 rưỡi mà không nghe tin gì của sếp có nghĩa là mọi sự êm xuôi và chúng ta có thể vạch,” gã kia nói thêm. “Sẽ có người đến mở trói cho mẹ con bà. Chúng tôi sẽ đi bằng xe của bà, thưa bà. Cảnh sát sẽ tìm giúp xe cho bà, vậy bà đừng lo.”
Edna uể oải gật đầu.
“Thôi thì bật TV lên,” Bud nói, tiến tới chỗ cái TV. “Xem cho đỡ buồn chờ giờ ra đi.”
TV đang chiếu một màn rất ồn, với một ban quân nhạc. Thậm chí Edna và Paulie không nghe được tiếng nhiều chiếc xe đang chạy đến. Thình lình cửa trước bật mở và rất đông cảnh sát ập vào, tay lăm lăm súng. Trông như thể gần nửa số cảnh sát của thị trấn. Mà thật vậy. Nửa số kia đang ở đằng ngân hàng, tóm cổ ba tên ở đó.
* * *
“Anh vẫn không rõ bằng cách nào em phá được vụ này, em yêu,” Richard nói, cầm chặt tay vợ. Edna đã ngã quỵ như một phản ứng, và hiện cô đang nằm duỗi trên ghế dài, vẫn còn yếu và run rẩy. Mọi người đang vây quanh—Richard, Julia, viên Cảnh sát trưởng. Paulie, mệt mỏi sau cơn sôi động, đang ngủ say trên chiếc ghế nơi trước đó nó đã bị trói.
“Chính nhờ Julia,” Edna thều thào, ngẩng đầu lên mỉm cười với bạn. “Em chẳng thể truyền đạt ẩn ý với ai khác. Kể cho mọi người nghe đi, Julia.”
“À, lúc Edna nhắc đến việc phải đưa Paulie đi viện là lúc tôi nhận ra Edna đang cố truyền tin gì đó cho tôi—tin ấy hẳn rất bất thường.
“Đương nhiên lúc ấy tôi không biết bạn tôi đang nói trong lúc súng kề sau lưng, nhưng tôi đoán chắc hẳn có lý do chính đáng đằng sau những lời đa nghĩa ấy. Rồi thì Edna nhắc đến con cái của tôi—mà tôi chưa có chồng thì con cái đâu ra! Và rồi Edna nói Paulie sẽ được đưa đến khu bệnh nhi của Bệnh Viện Farnham—mà, chẳng qua đây là tên gọi lịch sự để chỉ Nhà Dưỡng Lão Quận.
“Thế là, rốt cuộc tôi hiểu Edna đang gặp rắc rối. Tôi không biết rắc rối nằm ở đâu—ở đây hay ở đằng ngân hàng, hay ở cả hai—nhưng có một điều Edna nói thêm khiến tôi quyết định tới đồn cảnh sát ngay lập tức.”
“Mọi sự chứng tỏ cho quý vị thấy,” Cảnh sát trưởng nói. “Đây là vụ cướp được lên kế hoạch tốt nhất mà tôi từng biết. Về phía bọn cướp, có vẻ như sẽ không có gì sai sót cả. Nhưng chúng không phải là người vùng này, nên chúng không biết những gì mà trẻ con ở đây đều biết.
“Thoạt đầu tôi ngỡ cô này khùng rồi,” Cảnh sát trưởng nói thêm như để xin lỗi. “Nhưng khi cô ấy bảo tôi xe của ông Fairchild vẫn còn đỗ bên ngoài nhà này, thế mà bà Fairchild thì bảo ông chồng đang ‘rất bận’ ở ngân hàng— rồi còn không cho cô ấy vào nhà, rồi còn phịa ra cái Bệnh Viện Farnham để cảnh báo cô ấy—như thế, rất có thể bà Fairchild đang bị giữ làm con tin. Và không thể có lý do cho việc này—trừ phi có kẻ đang cố cướp nhà băng. Và hôm nay là Thứ Sáu, ngày trả lương cho các trường Jenks. Thế nên tôi có linh cảm—và chúng ta đã gặp may.
“Cảm ơn bà Fairchild, chúng tôi đã bắt được một gã mà cả tiểu bang đã tầm nã từ lâu, và cả băng của hắn nữa. Cũng may cho tôi luôn—tóm một mẻ như thế này, ngay tháng đầu tiên tôi đến nhận việc.”
“Và cũng may cho tôi ở ngân hàng luôn.” Richard bóp chặt tay Edna. “Chúng ta đã cứu được số lương của hệ thống Jenk, cả thảy là 98.000 đô-la, và ở đằng ấy tôi đang là con cưng, mặc dù tất cả là nhờ sự lanh trí của vợ tôi.”
“Sẽ có phần thưởng cho cậu con cưng ấy,” Cảnh sát trưởng nói, “và tôi nghĩ cả hai cô sẽ nhận được một phần chia đáng kể.”
“Tôi luôn biết tôi có một người vợ thông minh!” Richard tự hào. “Và vợ tôi cũng có một cô bạn rất nhanh trí. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu, Julia. Làm thế nào Edna khiến cô nhận ra ngay rằng đây là chuyện của cảnh sát?”
“Đúng thế,” Cảnh sát trưởng chen vào. “Tôi cũng không hiểu. Bà Fairchild, bà là một người can đảm. Bà liều lĩnh thật, khi súng kề bên lưng. Bà đã làm cách nào?”
Edna và Julia cùng phá ra cười. Cười xong, Julia giải thích.
“Khi ta sống lâu hơn trong một thị trấn nhỏ như thế này, thưa Sếp, ta sẽ nhận ra rằng mọi người đều biết nhau cả. Bọn cướp ấy từ nơi khác đến nên không biết, chứ Edna và tôi đều rõ chỉ có một người trong thị trấn này mang tên—”
“Ồ, tôi hiểu rồi!” Cảnh sát trưởng Schermerhorn thốt lên.
—HẾT—

𝗡𝗔𝗞𝗘𝗗 𝗜𝗡 𝗗𝗔𝗥𝗞𝗡𝗘𝗦𝗦 - Hugh B. Cave

TRẦN TRUỒNG TRONG BÓNG TỐI
(trích từ nguyệt san 𝗘𝗟𝗟𝗘𝗥𝗬 𝗤𝗨𝗘𝗘𝗡’𝗦 𝗠𝗔𝗚𝗔𝗭𝗜𝗡𝗘, số tháng Tám năm 1965).
Dịch giả:Vĩnh Bá
------------------

Hai người đã đến gần cửa hang. Sheppard có thể thấy một vệt ánh sáng trời trước mặt và nghe tiếng mưa sầm sập trên núi. Phải chăng cơn bão Flora đã vùi dập hòn đảo trong suốt quãng thời gian ông ở trong hang?
Có lẽ thế. Ngay trước khi ông rời khỏi Thị Trấn Moore, sở dự báo thời tiết ở Palisadoes đã đưa ra lời cảnh báo. Flora đang giảm tốc độ khi đi ngang qua Cuba. Đảo Jamaica có thể đón nhận mưa tầm tã cho đến khi cơn bão tăng tốc trở lại.
Sheppard cau mày. Chuyến xuống núi để trở về sẽ là một cơn ác mộng, ông đã không hề chợp mắt suốt 36 tiếng đồng hồ rồi.
Trước mặt ông, kẻ bị bắt vấp chân trên mặt nền đá mấp mô và lại bắt đầu chửi thề. Sheppard chỉ nâng nòng khẩu súng săn lên một chút. Gã tù nhân nhìn lui, đôi mắt lươn của hắn sáng lên trong ánh đèn pin của người bắt giữ hắn.
“Ít ra ông cũng có thể mở còng cho tôi trước khi tôi té gãy cổ chứ!” hắn gắt gỏng.
“Bước tới.”
“Sao ông không bắn tôi một phát cho xong chuyện?”
“Mày thử lao vào tao lần nữa xem,” Sheppard nói, “tao sẽ bắn liền.”
Hồi nãy ông đã không bắn. McCoy, bất ngờ bị tóm ở trong hang sâu, đã lao vào tấn công ông như một kẻ điên, nhưng Sheppard chỉ trở ngược khẩu Baretta một nòng lại và quật mạnh báng súng vào hàm hắn. Ông rất thích khẩu Baretta nhỏ gọn này. Nó chỉ bắn từng phát một, đúng thế, nhưng nó rất nhẹ, thích hợp cho những động tác nhanh.
McCoy nhìn vào họng súng và loạng choạng bước về phía cửa hang.
Rồi Sheppard nghe tiếng ì ầm.
Âm thanh ấy từ rất cao bên trên đầu họ vọng xuống rồi lớn dần thành một tiếng sấm động. Nó trở thành tiếng một đoàn tàu ma quái lao vun vút xuống núi. Đột nhiên nó nổ bùng thành một sự rung chuyển như một cơn địa chấn khủng khiếp.
Sheppard thủ thế, quan sát cái khe sáng nơi miệng hang. Ông đã từng sống ở vùng núi non Jamaica hồi còn bé và đã từng thấy những trận sạt lở đất. Khe sáng hẹp ấy rất dễ bị hủy hoại. Khe sáng này nhìn ra một gờ đá hẹp cỡ bằng khoảng sân nhà ông ở Kingston. Sườn núi phía trên gờ đá này gần như thẳng đứng.
Một tảng đá lớn đổ ầm xuống gờ đá, lăn tới và rơi qua rìa gờ đá. Tiếp theo là một cơn mưa đất đá vụn, nhanh chóng đổ dồn thành một đống. Lúc này mới là lúc núi lở, đất, cây và đá, đổ xuống ầm ầm dữ dội đến độ cơn sóng xung kích khiến ông lảo đảo.
Ông nhìn đống đất lấp kín miệng hang và làm tắt ngấm ánh sáng. Qua ánh đèn pin ông thấy đống đất trườn về phía McCoy và ông, lấp đường hầm từ sàn lên đến trần.
Họ lùi lại và đống đất lấn tới 20, 30 feet (7–10 m), giống như một con sâu khổng lồ, trước khi nó chậm dần rồi dừng lại. Tiếng sấm dữ dội cũng đã ngưng. Âm thanh còn lại là tiếng đất trụt khe khẽ khi mà bề mặt của bức tường đất đã ổn định.
Cả hai bất động một hồi lâu. Rồi McCoy quay đầu lại. “Này ông, giờ ông nghĩ sao, hở?” McCoy sinh ra ở Kingston, học hành tử tế, nhưng trông hắn như một nông dân và hắn lấy làm thích thú khi nói năng như nông dân.
Sheppard chậm rãi nói. “Còn lối nào khác để ra khỏi đây không?”
“Hết, chỉ lối này thôi, ông ơi.”
Sheppard im lặng. Chính ông cũng không rành hang núi này. Ông chỉ biết có một hang núi ở cái vùng gần như khó tiếp cận này, và đây là nơi hợp lý để tìm kiếm kẻ đang bị truy nã. Ông thực sự biết đây là một hang động lớn, với hàng tá động và một mê cung gồm các đường hầm. Khám phá cho hết cũng phải mất nhiều hơn số ngày ông có thể hy vọng sống sót.
Ông tiến tới để xem xét con sâu đất khổng lồ. Sau lưng ông McCoy nói giọng tỉnh khô, “Bọn mềng khôn đào xuyên qua được mô, ôn nạ. Phải có xe ủi đất, mà bọn họ khôn đưa xe ủi lên đặng cho dù biết bọn mềng kẹt ở đây. Cách nào cũng chịu, biết chỗ mô mà đào. Đất chuồi lấp miệng hang rồi chơ mô nữa.”
“Nói năng cho đàng hoàng vào,” Sheppard nói.
“Được thôi, ông bạn. Còn mệnh lệnh nào nữa trong khi hai ta ngồi đây chờ chết?”
Sheppard ngẫm nghĩ câu nói của hắn trong một lát. “Ừ,” ông nói. “Hãy trở lại cái động vừa đi qua rồi ngồi xuống. Tao không thích cái mùi của mày trong một nơi chật chội như thế này.”
McCoy nhe răng cười. “Ông cứ trốn trong hang hai tuần, ông bạn ạ, rồi chính ông cũng không thể thơm tho chút nào. Hôi là bộ quần áo này.”
“Bước,” Sheppard ra lệnh.
Động ấy không rộng lắm. Vào đó họ ngồi cách nhau 20 feet (6 m), lưng tựa vào hai vách động đối diện. McCoy đặt hai bàn tay bị còng lên hai đầu gối co lại, điềm tĩnh nhìn kẻ đang bắt giữ hắn.
“Ông làm gì, hở ông? Ông làm ngành nghề gì?”
“Tao trong ngành cà phê.”
“Thế ra ông là chủ đồn điền, hở?”
“Gần như thế,” Sheppard nói khẽ.
“Vậy sao ông làm khó tôi? Tôi đã làm gì ông?”
Sheppard trừng mắt lạnh lùng nhìn hắn. “Trong hai tháng vừa rồi mày đã cưỡng hiếp bốn phụ nữ, McCoy ạ.”
“Thì sao?”
“Trong đó có em gái tao.”
McCoy tròn cặp môi lại thành một chữ O biểu lộ ngạc nhiên. “Chừ ông mới nói. Bậy thật ông hí. Mềng mà biết ả là em ông, mềng đã không làm.”
“Và mày đã giết hai cảnh sát.”
“Chúng suýt bắt được mềng.”
“Mày là một con thú, McCoy ạ.”
Kẻ bị còng tay rụt đôi vai hộ pháp lên rồi thỏng xuống lại. “Mềng đã bảo rằng không phải mềng hôi. Áo quần mềng hôi đó.” Hắn nhăn mặt nhìn bộ quần áo giẻ rách của hắn. “Ông đổi áo quần với mềng ông cũng hôi như mềng.” Tiếng cười của hắn nghe như tiếng gầm gừ. “Có thuốc hút không hở ông?”
“Tao không hút thuốc.”
“Trong túi có bình rượu rum, có lẽ?”
“Tao không uống rượu.”
“Xùy!” McCoy nói. “Ông đếch là loại chơi được. Mềng ngủ đây.”
Hai mí mắt của Sheppard cũng nặng trĩu vì kiệt sức, nhưng ông cố gượng không nhắm mắt. Ông ngồi, để khẩu Baretta gác ngang đầu gối, cây đèn pin chiếu sáng trên sàn động bên cạnh ông. Những viên pin ông đem thêm giờ đã bỏ vào trong đèn, đang cạn điện dần. Khi nào pin cạn kiệt ông và McCoy sẽ ngồi trong bóng tối.
“Trần truồng trong bóng tối,” Sheppard nói khẽ, chăm chăm nhìn gã tù nhân.
McCoy hé một mắt. “Ông vừa nói gì?”
“Mày không hiểu đâu.”
“ ‘Trần truồng trong bóng tối.’ Mềng nghe ông nói. Nghĩa là gì vậy?”
“Tao đã bảo mày không hiểu đâu. Một câu trong một bài thơ. ‘Trần truồng trong bóng tối, ta ngồi và ta đợi.’ ”
“Hay lắm,” McCoy nói, không dùng thổ ngữ nữa. “Tôi thích câu ấy.” Hắn nhắm lại con mắt vừa hé mở, có vẻ như thiếp ngủ trong một lát, rồi hắn mở cả hai mắt, nhìn Sheppard, nhe răng cười. “Đúng thế. ‘Trần truồng trong bóng tối.’—hay lắm. Tôi sẽ nhớ câu này.” Một lúc sau hắn nói tiếp, “Làm thế nào ông tìm được tôi, hở ông. Chắc hẳn ông khôn hơn cảnh sát. Bọn cảnh sát không tìm được.”
“Tao điều tra mày.”
“Điều tra tôi? Bằng cách nào?”
“Khi cô gái sau cùng ấy nhận ra mày, tao tìm gặp những người có biết mày. Tao nói chuyện với những giáo viên của mày, và với những người mày đã cùng lớn lên và cùng làm việc. Tao có thể viết thành chuyện đời của mày, McCoy ạ. Tao hiểu ra mày là đứa dễ lên cơn cuồng nộ mỗi khi sự việc không êm xuôi với mày. Tao biết việc mày hay đi săn bồ câu trong vùng này, và khi mày dùng súng bắn đứt lìa hai ngón của bàn tay trái thì mày bắt đầu tự xưng là Jack Ba Ngón bởi vì mày rất ngưỡng mộ thằng Jack Ba Ngón thứ thiệt. Thằng ấy cũng là một tên sát nhân.”
“Rồi sao?” McCoy nói
“Thằng Jack thứ thiệt cũng đã trốn trong hang động khi bị truy lùng, McCoy ạ. Tao biết có một cái hang lớn ở đây nơi mày hay săn bắn bồ câu. Thế nên tao lần ra dấu vết của mày.”
McCoy cười khẩy. “Ông khôn thật. Ông cũng nên đủ khôn ngoan để nghiệm ra cách thoát khỏi nơi đây.” Hắn chờ đợi, và khi Sheppard không trả lời hắn lại cười khẩy. “Ông có vợ chứ?”
Sheppard gật đầu.
“Con cái?”
Sheppard lại gật đầu.
McCoy lắc đầu. “Khổ thay cho ông. Dành cho tôi chỉ còn người điều khiển giá treo cổ—không sớm thì muộn, người treo cổ—nhưng coi lại đi, ông đã tự đưa ông đến cảnh ngộ gì. À, chính là sai lầm tai hại của ông. Thôi, tôi ngủ đây.”
Hắn lại nhắm mắt. Lần này thì hắn ngủ thật.
Nửa giờ sau Sheppard cũng cho phép mắt ông nhắm lại. Ông vô cùng mệt. . . Ông thức giấc cảm thấy một bàn chân cáu bẩn hôi hám thúc vào cổ mình và McCoy đang cầm súng đắc thắng đứng nhìn ông. Nòng súng Beretta kề sát bên đầu ông.
“Đưa chìa khóa còng, này ông,” McCoy nói.
Sheppard không nhúch nhích.
“Chìa khóa! Ông nghĩ tôi sẽ không bắn ông ư?” Nòng súng Beretta là một đường hầm dài tối đen trước con mắt bên phải của ông. “Đạn sẵn trong nòng, ông ạ. Tôi nghĩ có lẽ ông đã tháo đạn ra khi tôi đang ngủ, thế nên tôi đã xem kỹ. Đã nạp đạn, ông ơi—vậy đưa chìa khóa đây!”
Sheppard lấy chìa khóa trong túi ra và nhìn cái còng rơi xuống nền hang. Ông chậm rãi nói, “Thế ra còn đường khác để ra khỏi đây. Mày đã nói dối.”
McCoy cười lớn. “Ông ngu lắm, ông ạ. Chính miệng ông nói tôi thường phát cuồng khi mọi sự không êm xuôi. Ngay lúc ông tìm thấy tôi, tôi đã lao vào ông, đúng thế không?—dù khẩu súng này đang chỉa vào bụng tôi. Tôi có phát cuồng chăng khi trận lở núi vùi lấp cửa hang?”
“Tao hiểu,” Sheppard nói.
“Nhưng chỉ một trong hai ta sẽ ra khỏi đây, thưa ông. Cởi giày và áo quần ra—cởi hết. Hai thứ này sẽ rất có ích cho tôi khi thoát ra ngoài.”
Sheppard rốt cuộc ngoảnh đi không nhìn mặt McCoy và từ từ trở thành trần truồng. McCoy vói tay lấy cặp còng. “Ông có thể mang cái này vào.”
Cặp còng kêu “tách” một tiếng ôm lấy hai cổ tay của ông. McCoy cởi bỏ bộ đồ rách rưới của hắn, mặc vào bộ quần áo của Sheppard, thắt giây đôi giày của Sheppard. Rồi cắp nách bộ quần áo giẻ rách, hắn nhặt lấy khẩu súng và cây đèn pin.
“Tạm biệt, nhé ông.”
Sherppard chậm rãi nói. “Mày để tao lại như thế này sao?”
“ ‘Trần truồng trong bóng tối,’ ” McCoy cười khẩy. “Ông đã gieo cái ý tưởng ấy vào trong đầu tôi—tôi chỉ trao đổi quần áo với ông và lấy khẩu súng. Dẫu sao, ông cũng không cảm thấy dễ chịu trong đống giẻ rách này của tôi, kể cả khi đắp lên người để giữ ấm. Chính ông nói chúng rất hôi hám.” Hắn cúi nhìn người đàn ông trần truồng và cười lớn. “Bây giờ thì thử tìm đường mà ra khỏi đây nhé,” hắn nói, “trong bóng tối và không dùng đến hai tay.”
Hắn đi men theo vách hang tới một trong những cửa vào động. Trước khi khuất dạng, hắn quay đầu lại. “ ‘Trần truồng trong bóng tối.’ Ôi, quá hay. Tôi sẽ nói câu này với con bé tôi đã để mắt tới tại Thị Trấn Tây Ban Nha.” Hắn mất dạng.
Sheppard nằm yên khi tiếng chân tắt dần trong bóng tối. Ông run rẩy. Rồi ông trườn tới cho đến khi hai bàn tay bị còng chạm vào một phiến đá phẳng.
Ông lật phiến đá lên. Mấy ngón tay ông chạm vào cái chìa khóa dự phòng ông đã thu giấu bên dưới khi McCoy đang ngủ. Chiếc còng rơi xuống và ông đứng dậy. Ông bước từ từ đến đường hầm mà McCoy đã biến vào đó, chầm chậm đi men theo, từng bước dò dẫm mặt nền đường hầm. Hai bàn tay ông liên tục quờ quạng trước mặt.
Cuối cùng ông tới được nơi đường hầm rẽ nhánh, ông do dự. Nhưng không do dự lâu. Ông lại tiếp tục đi, dò dẫm.
𝑇𝑟𝑎̂̀𝑛 𝑡𝑟𝑢𝑜̂̀𝑛𝑔 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑏𝑜́𝑛𝑔 𝑡𝑜̂́𝑖, ông nghĩ thầm. Trần truồng ông đang là, trần truồng ông đang cảm thấy. Tuy thế, đi chân trần hóa ra tốt hơn mang giày vì cảm nhận được sự mấp mô của mặt nền hang động hoặc dò ra được rìa của một cái hố vô hình mà ông phải đi vòng để tránh.
Sự căng thẳng của các giác quan bắt đầu lên tiếng. Ông dừng lại nghỉ chân. Nghỉ xong ông lại đi tiếp qua cái mê cung, dò dẫm từng bước, từng bước một.
Sau gần hai giờ đồng hồ, ông tìm thấy cái mớ giẻ rách mà McCoy vứt lại. Ông không động đến nó. Hai mươi phút sau ông thấy ánh sáng trời. Chỉ là một đốm sáng nhỏ đằng trước mặt, nhưng nó lớn dần khi ông tiến lại. Nó trở thành một cửa hang đủ rộng cho một người lách qua.
Nền hang động, cao dần như một con dốc đưa lên cửa hang ấy, rải rác nhiều tảng đá. Ông nhìn kỹ những tảng đá ấy. Ông cúi xuống. Một lát sau ông lách mình qua được khoảng hở và thấy mình đang đứng trên một gờ đá rộng chừng một yard (1m) rậm rạp những thứ cây nhiệt đới héo úa. Sườn núi đổ dốc gần như thẳng đứng xuống một thung lũng xanh tốt nơi những luồng khói bếp bốc lên từ một cụm những ngôi nhà nông dân. Trời đang mưa.
Cũng trên gờ đá này, cách khoảng 20 feet (6 mét), McCoy chộp lấy khẩu Beretta và loạng choạng đứng dậy nơi nãy giờ hắn đang quan sát các ngôi nhà. Vẻ mặt ngạc nhiên của hắn từ từ chuyển thành vẻ thú vị khi bóng dáng trần truồng của Sheppard từ cửa hang chui ra, đứng thẳng lên, đối mặt với hắn.
“Ah, chao ôi là lạ,” McCoy nói. “Ông đã tìm được lối ra.”
Hai bàn tay của Sheppard buông thỏng xuống. Ông rất mệt. Tuy vậy, ông vẫn ung dung.
“Mày để lại dấu vết, McCoy ạ.”
“Đứng yên, này ông. Đạn vẫn còn trong súng,” McCoy cảnh báo. “Tôi để lại dấu vết gì?”
“Mùi hôi, McCoy ạ. Mùi hôi từ bộ quần áo của mày. Kể cả sau khi mày vứt bỏ quần áo, mùi hôi vẫn bám trên người mày.” Mắt không rời khẩu súng, Sheppard nhích khẽ bàn chân trần để bấu chặt hơn vào gờ đá. “Tao bảo mày tao ở trong ngành cà phê. Tao không hề nói tao là chủ đồn điền. Chính mày mới nói thế. Tao là chuyên gia nếm cà phê. Đứng đây tao có thể ngửi thấy mùi của mày.”
McCoy, sau một chốc im lặng, khinh khỉnh nói, “Ông có ngửi được mùi thuốc súng trong viên đạn này không, hở?”
“Chẳng có thuốc súng nào để ngửi.”
McCoy cười lớn. “Tôi xem rồi, ông ạ. Ông quên rồi đó.”
Người đàn ông trần truồng nơi cửa hang lắc đầu. “Mày chỉ xem trong súng có đạn không mà thôi. Lẽ ra mày phải tháo viên đạn ra để xem. Tao đã trút hết thuốc súng ra rồi, McCoy ạ, trong khi mày đang ngủ. Bóp cò đi thì biết.”
McCoy bóp cò. Không sai chút nào, khi không có tiếng nổ, hắn quẳng khẩu súng xuống sườn núi rồi vừa lăn xả vừa chửi thề vào địch thủ.
Bàn tay phải của Sheppard vung lên. Hồi bé, ông cũng đi săn bồ câu trong vùng núi non Jamaica. Không phải bằng súng, dĩ nhiên. Mà bằng đá.
Nay ông ném đá vẫn giỏi. Đã ném là trúng.
—HẾT—