TRẦN TRUỒNG TRONG BÓNG TỐI
(trích từ nguyệt san 𝗘𝗟𝗟𝗘𝗥𝗬 𝗤𝗨𝗘𝗘𝗡’𝗦 𝗠𝗔𝗚𝗔𝗭𝗜𝗡𝗘, số tháng Tám năm 1965).
Dịch giả:Vĩnh Bá
------------------
Hai người đã đến gần cửa hang. Sheppard có thể thấy một vệt ánh sáng trời trước mặt và nghe tiếng mưa sầm sập trên núi. Phải chăng cơn bão Flora đã vùi dập hòn đảo trong suốt quãng thời gian ông ở trong hang?
Có lẽ thế. Ngay trước khi ông rời khỏi Thị Trấn Moore, sở dự báo thời tiết ở Palisadoes đã đưa ra lời cảnh báo. Flora đang giảm tốc độ khi đi ngang qua Cuba. Đảo Jamaica có thể đón nhận mưa tầm tã cho đến khi cơn bão tăng tốc trở lại.
Sheppard cau mày. Chuyến xuống núi để trở về sẽ là một cơn ác mộng, ông đã không hề chợp mắt suốt 36 tiếng đồng hồ rồi.
Trước mặt ông, kẻ bị bắt vấp chân trên mặt nền đá mấp mô và lại bắt đầu chửi thề. Sheppard chỉ nâng nòng khẩu súng săn lên một chút. Gã tù nhân nhìn lui, đôi mắt lươn của hắn sáng lên trong ánh đèn pin của người bắt giữ hắn.
“Ít ra ông cũng có thể mở còng cho tôi trước khi tôi té gãy cổ chứ!” hắn gắt gỏng.
“Bước tới.”
“Sao ông không bắn tôi một phát cho xong chuyện?”
“Mày thử lao vào tao lần nữa xem,” Sheppard nói, “tao sẽ bắn liền.”
Hồi nãy ông đã không bắn. McCoy, bất ngờ bị tóm ở trong hang sâu, đã lao vào tấn công ông như một kẻ điên, nhưng Sheppard chỉ trở ngược khẩu Baretta một nòng lại và quật mạnh báng súng vào hàm hắn. Ông rất thích khẩu Baretta nhỏ gọn này. Nó chỉ bắn từng phát một, đúng thế, nhưng nó rất nhẹ, thích hợp cho những động tác nhanh.
McCoy nhìn vào họng súng và loạng choạng bước về phía cửa hang.
Rồi Sheppard nghe tiếng ì ầm.
Âm thanh ấy từ rất cao bên trên đầu họ vọng xuống rồi lớn dần thành một tiếng sấm động. Nó trở thành tiếng một đoàn tàu ma quái lao vun vút xuống núi. Đột nhiên nó nổ bùng thành một sự rung chuyển như một cơn địa chấn khủng khiếp.
Sheppard thủ thế, quan sát cái khe sáng nơi miệng hang. Ông đã từng sống ở vùng núi non Jamaica hồi còn bé và đã từng thấy những trận sạt lở đất. Khe sáng hẹp ấy rất dễ bị hủy hoại. Khe sáng này nhìn ra một gờ đá hẹp cỡ bằng khoảng sân nhà ông ở Kingston. Sườn núi phía trên gờ đá này gần như thẳng đứng.
Một tảng đá lớn đổ ầm xuống gờ đá, lăn tới và rơi qua rìa gờ đá. Tiếp theo là một cơn mưa đất đá vụn, nhanh chóng đổ dồn thành một đống. Lúc này mới là lúc núi lở, đất, cây và đá, đổ xuống ầm ầm dữ dội đến độ cơn sóng xung kích khiến ông lảo đảo.
Ông nhìn đống đất lấp kín miệng hang và làm tắt ngấm ánh sáng. Qua ánh đèn pin ông thấy đống đất trườn về phía McCoy và ông, lấp đường hầm từ sàn lên đến trần.
Họ lùi lại và đống đất lấn tới 20, 30 feet (7–10 m), giống như một con sâu khổng lồ, trước khi nó chậm dần rồi dừng lại. Tiếng sấm dữ dội cũng đã ngưng. Âm thanh còn lại là tiếng đất trụt khe khẽ khi mà bề mặt của bức tường đất đã ổn định.
Cả hai bất động một hồi lâu. Rồi McCoy quay đầu lại. “Này ông, giờ ông nghĩ sao, hở?” McCoy sinh ra ở Kingston, học hành tử tế, nhưng trông hắn như một nông dân và hắn lấy làm thích thú khi nói năng như nông dân.
Sheppard chậm rãi nói. “Còn lối nào khác để ra khỏi đây không?”
“Hết, chỉ lối này thôi, ông ơi.”
Sheppard im lặng. Chính ông cũng không rành hang núi này. Ông chỉ biết có một hang núi ở cái vùng gần như khó tiếp cận này, và đây là nơi hợp lý để tìm kiếm kẻ đang bị truy nã. Ông thực sự biết đây là một hang động lớn, với hàng tá động và một mê cung gồm các đường hầm. Khám phá cho hết cũng phải mất nhiều hơn số ngày ông có thể hy vọng sống sót.
Ông tiến tới để xem xét con sâu đất khổng lồ. Sau lưng ông McCoy nói giọng tỉnh khô, “Bọn mềng khôn đào xuyên qua được mô, ôn nạ. Phải có xe ủi đất, mà bọn họ khôn đưa xe ủi lên đặng cho dù biết bọn mềng kẹt ở đây. Cách nào cũng chịu, biết chỗ mô mà đào. Đất chuồi lấp miệng hang rồi chơ mô nữa.”
“Nói năng cho đàng hoàng vào,” Sheppard nói.
“Được thôi, ông bạn. Còn mệnh lệnh nào nữa trong khi hai ta ngồi đây chờ chết?”
Sheppard ngẫm nghĩ câu nói của hắn trong một lát. “Ừ,” ông nói. “Hãy trở lại cái động vừa đi qua rồi ngồi xuống. Tao không thích cái mùi của mày trong một nơi chật chội như thế này.”
McCoy nhe răng cười. “Ông cứ trốn trong hang hai tuần, ông bạn ạ, rồi chính ông cũng không thể thơm tho chút nào. Hôi là bộ quần áo này.”
“Bước,” Sheppard ra lệnh.
Động ấy không rộng lắm. Vào đó họ ngồi cách nhau 20 feet (6 m), lưng tựa vào hai vách động đối diện. McCoy đặt hai bàn tay bị còng lên hai đầu gối co lại, điềm tĩnh nhìn kẻ đang bắt giữ hắn.
“Ông làm gì, hở ông? Ông làm ngành nghề gì?”
“Tao trong ngành cà phê.”
“Thế ra ông là chủ đồn điền, hở?”
“Gần như thế,” Sheppard nói khẽ.
“Vậy sao ông làm khó tôi? Tôi đã làm gì ông?”
Sheppard trừng mắt lạnh lùng nhìn hắn. “Trong hai tháng vừa rồi mày đã cưỡng hiếp bốn phụ nữ, McCoy ạ.”
“Thì sao?”
“Trong đó có em gái tao.”
McCoy tròn cặp môi lại thành một chữ O biểu lộ ngạc nhiên. “Chừ ông mới nói. Bậy thật ông hí. Mềng mà biết ả là em ông, mềng đã không làm.”
“Và mày đã giết hai cảnh sát.”
“Chúng suýt bắt được mềng.”
“Mày là một con thú, McCoy ạ.”
Kẻ bị còng tay rụt đôi vai hộ pháp lên rồi thỏng xuống lại. “Mềng đã bảo rằng không phải mềng hôi. Áo quần mềng hôi đó.” Hắn nhăn mặt nhìn bộ quần áo giẻ rách của hắn. “Ông đổi áo quần với mềng ông cũng hôi như mềng.” Tiếng cười của hắn nghe như tiếng gầm gừ. “Có thuốc hút không hở ông?”
“Tao không hút thuốc.”
“Trong túi có bình rượu rum, có lẽ?”
“Tao không uống rượu.”
“Xùy!” McCoy nói. “Ông đếch là loại chơi được. Mềng ngủ đây.”
Hai mí mắt của Sheppard cũng nặng trĩu vì kiệt sức, nhưng ông cố gượng không nhắm mắt. Ông ngồi, để khẩu Baretta gác ngang đầu gối, cây đèn pin chiếu sáng trên sàn động bên cạnh ông. Những viên pin ông đem thêm giờ đã bỏ vào trong đèn, đang cạn điện dần. Khi nào pin cạn kiệt ông và McCoy sẽ ngồi trong bóng tối.
“Trần truồng trong bóng tối,” Sheppard nói khẽ, chăm chăm nhìn gã tù nhân.
McCoy hé một mắt. “Ông vừa nói gì?”
“Mày không hiểu đâu.”
“ ‘Trần truồng trong bóng tối.’ Mềng nghe ông nói. Nghĩa là gì vậy?”
“Tao đã bảo mày không hiểu đâu. Một câu trong một bài thơ. ‘Trần truồng trong bóng tối, ta ngồi và ta đợi.’ ”
“Hay lắm,” McCoy nói, không dùng thổ ngữ nữa. “Tôi thích câu ấy.” Hắn nhắm lại con mắt vừa hé mở, có vẻ như thiếp ngủ trong một lát, rồi hắn mở cả hai mắt, nhìn Sheppard, nhe răng cười. “Đúng thế. ‘Trần truồng trong bóng tối.’—hay lắm. Tôi sẽ nhớ câu này.” Một lúc sau hắn nói tiếp, “Làm thế nào ông tìm được tôi, hở ông. Chắc hẳn ông khôn hơn cảnh sát. Bọn cảnh sát không tìm được.”
“Tao điều tra mày.”
“Điều tra tôi? Bằng cách nào?”
“Khi cô gái sau cùng ấy nhận ra mày, tao tìm gặp những người có biết mày. Tao nói chuyện với những giáo viên của mày, và với những người mày đã cùng lớn lên và cùng làm việc. Tao có thể viết thành chuyện đời của mày, McCoy ạ. Tao hiểu ra mày là đứa dễ lên cơn cuồng nộ mỗi khi sự việc không êm xuôi với mày. Tao biết việc mày hay đi săn bồ câu trong vùng này, và khi mày dùng súng bắn đứt lìa hai ngón của bàn tay trái thì mày bắt đầu tự xưng là Jack Ba Ngón bởi vì mày rất ngưỡng mộ thằng Jack Ba Ngón thứ thiệt. Thằng ấy cũng là một tên sát nhân.”
“Rồi sao?” McCoy nói
“Thằng Jack thứ thiệt cũng đã trốn trong hang động khi bị truy lùng, McCoy ạ. Tao biết có một cái hang lớn ở đây nơi mày hay săn bắn bồ câu. Thế nên tao lần ra dấu vết của mày.”
McCoy cười khẩy. “Ông khôn thật. Ông cũng nên đủ khôn ngoan để nghiệm ra cách thoát khỏi nơi đây.” Hắn chờ đợi, và khi Sheppard không trả lời hắn lại cười khẩy. “Ông có vợ chứ?”
Sheppard gật đầu.
“Con cái?”
Sheppard lại gật đầu.
McCoy lắc đầu. “Khổ thay cho ông. Dành cho tôi chỉ còn người điều khiển giá treo cổ—không sớm thì muộn, người treo cổ—nhưng coi lại đi, ông đã tự đưa ông đến cảnh ngộ gì. À, chính là sai lầm tai hại của ông. Thôi, tôi ngủ đây.”
Hắn lại nhắm mắt. Lần này thì hắn ngủ thật.
Nửa giờ sau Sheppard cũng cho phép mắt ông nhắm lại. Ông vô cùng mệt. . . Ông thức giấc cảm thấy một bàn chân cáu bẩn hôi hám thúc vào cổ mình và McCoy đang cầm súng đắc thắng đứng nhìn ông. Nòng súng Beretta kề sát bên đầu ông.
“Đưa chìa khóa còng, này ông,” McCoy nói.
Sheppard không nhúch nhích.
“Chìa khóa! Ông nghĩ tôi sẽ không bắn ông ư?” Nòng súng Beretta là một đường hầm dài tối đen trước con mắt bên phải của ông. “Đạn sẵn trong nòng, ông ạ. Tôi nghĩ có lẽ ông đã tháo đạn ra khi tôi đang ngủ, thế nên tôi đã xem kỹ. Đã nạp đạn, ông ơi—vậy đưa chìa khóa đây!”
Sheppard lấy chìa khóa trong túi ra và nhìn cái còng rơi xuống nền hang. Ông chậm rãi nói, “Thế ra còn đường khác để ra khỏi đây. Mày đã nói dối.”
McCoy cười lớn. “Ông ngu lắm, ông ạ. Chính miệng ông nói tôi thường phát cuồng khi mọi sự không êm xuôi. Ngay lúc ông tìm thấy tôi, tôi đã lao vào ông, đúng thế không?—dù khẩu súng này đang chỉa vào bụng tôi. Tôi có phát cuồng chăng khi trận lở núi vùi lấp cửa hang?”
“Tao hiểu,” Sheppard nói.
“Nhưng chỉ một trong hai ta sẽ ra khỏi đây, thưa ông. Cởi giày và áo quần ra—cởi hết. Hai thứ này sẽ rất có ích cho tôi khi thoát ra ngoài.”
Sheppard rốt cuộc ngoảnh đi không nhìn mặt McCoy và từ từ trở thành trần truồng. McCoy vói tay lấy cặp còng. “Ông có thể mang cái này vào.”
Cặp còng kêu “tách” một tiếng ôm lấy hai cổ tay của ông. McCoy cởi bỏ bộ đồ rách rưới của hắn, mặc vào bộ quần áo của Sheppard, thắt giây đôi giày của Sheppard. Rồi cắp nách bộ quần áo giẻ rách, hắn nhặt lấy khẩu súng và cây đèn pin.
“Tạm biệt, nhé ông.”
Sherppard chậm rãi nói. “Mày để tao lại như thế này sao?”
“ ‘Trần truồng trong bóng tối,’ ” McCoy cười khẩy. “Ông đã gieo cái ý tưởng ấy vào trong đầu tôi—tôi chỉ trao đổi quần áo với ông và lấy khẩu súng. Dẫu sao, ông cũng không cảm thấy dễ chịu trong đống giẻ rách này của tôi, kể cả khi đắp lên người để giữ ấm. Chính ông nói chúng rất hôi hám.” Hắn cúi nhìn người đàn ông trần truồng và cười lớn. “Bây giờ thì thử tìm đường mà ra khỏi đây nhé,” hắn nói, “trong bóng tối và không dùng đến hai tay.”
Hắn đi men theo vách hang tới một trong những cửa vào động. Trước khi khuất dạng, hắn quay đầu lại. “ ‘Trần truồng trong bóng tối.’ Ôi, quá hay. Tôi sẽ nói câu này với con bé tôi đã để mắt tới tại Thị Trấn Tây Ban Nha.” Hắn mất dạng.
Sheppard nằm yên khi tiếng chân tắt dần trong bóng tối. Ông run rẩy. Rồi ông trườn tới cho đến khi hai bàn tay bị còng chạm vào một phiến đá phẳng.
Ông lật phiến đá lên. Mấy ngón tay ông chạm vào cái chìa khóa dự phòng ông đã thu giấu bên dưới khi McCoy đang ngủ. Chiếc còng rơi xuống và ông đứng dậy. Ông bước từ từ đến đường hầm mà McCoy đã biến vào đó, chầm chậm đi men theo, từng bước dò dẫm mặt nền đường hầm. Hai bàn tay ông liên tục quờ quạng trước mặt.
Cuối cùng ông tới được nơi đường hầm rẽ nhánh, ông do dự. Nhưng không do dự lâu. Ông lại tiếp tục đi, dò dẫm.
𝑇𝑟𝑎̂̀𝑛 𝑡𝑟𝑢𝑜̂̀𝑛𝑔 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑏𝑜́𝑛𝑔 𝑡𝑜̂́𝑖, ông nghĩ thầm. Trần truồng ông đang là, trần truồng ông đang cảm thấy. Tuy thế, đi chân trần hóa ra tốt hơn mang giày vì cảm nhận được sự mấp mô của mặt nền hang động hoặc dò ra được rìa của một cái hố vô hình mà ông phải đi vòng để tránh.
Sự căng thẳng của các giác quan bắt đầu lên tiếng. Ông dừng lại nghỉ chân. Nghỉ xong ông lại đi tiếp qua cái mê cung, dò dẫm từng bước, từng bước một.
Sau gần hai giờ đồng hồ, ông tìm thấy cái mớ giẻ rách mà McCoy vứt lại. Ông không động đến nó. Hai mươi phút sau ông thấy ánh sáng trời. Chỉ là một đốm sáng nhỏ đằng trước mặt, nhưng nó lớn dần khi ông tiến lại. Nó trở thành một cửa hang đủ rộng cho một người lách qua.
Nền hang động, cao dần như một con dốc đưa lên cửa hang ấy, rải rác nhiều tảng đá. Ông nhìn kỹ những tảng đá ấy. Ông cúi xuống. Một lát sau ông lách mình qua được khoảng hở và thấy mình đang đứng trên một gờ đá rộng chừng một yard (1m) rậm rạp những thứ cây nhiệt đới héo úa. Sườn núi đổ dốc gần như thẳng đứng xuống một thung lũng xanh tốt nơi những luồng khói bếp bốc lên từ một cụm những ngôi nhà nông dân. Trời đang mưa.
Cũng trên gờ đá này, cách khoảng 20 feet (6 mét), McCoy chộp lấy khẩu Beretta và loạng choạng đứng dậy nơi nãy giờ hắn đang quan sát các ngôi nhà. Vẻ mặt ngạc nhiên của hắn từ từ chuyển thành vẻ thú vị khi bóng dáng trần truồng của Sheppard từ cửa hang chui ra, đứng thẳng lên, đối mặt với hắn.
“Ah, chao ôi là lạ,” McCoy nói. “Ông đã tìm được lối ra.”
Hai bàn tay của Sheppard buông thỏng xuống. Ông rất mệt. Tuy vậy, ông vẫn ung dung.
“Mày để lại dấu vết, McCoy ạ.”
“Đứng yên, này ông. Đạn vẫn còn trong súng,” McCoy cảnh báo. “Tôi để lại dấu vết gì?”
“Mùi hôi, McCoy ạ. Mùi hôi từ bộ quần áo của mày. Kể cả sau khi mày vứt bỏ quần áo, mùi hôi vẫn bám trên người mày.” Mắt không rời khẩu súng, Sheppard nhích khẽ bàn chân trần để bấu chặt hơn vào gờ đá. “Tao bảo mày tao ở trong ngành cà phê. Tao không hề nói tao là chủ đồn điền. Chính mày mới nói thế. Tao là chuyên gia nếm cà phê. Đứng đây tao có thể ngửi thấy mùi của mày.”
McCoy, sau một chốc im lặng, khinh khỉnh nói, “Ông có ngửi được mùi thuốc súng trong viên đạn này không, hở?”
“Chẳng có thuốc súng nào để ngửi.”
McCoy cười lớn. “Tôi xem rồi, ông ạ. Ông quên rồi đó.”
Người đàn ông trần truồng nơi cửa hang lắc đầu. “Mày chỉ xem trong súng có đạn không mà thôi. Lẽ ra mày phải tháo viên đạn ra để xem. Tao đã trút hết thuốc súng ra rồi, McCoy ạ, trong khi mày đang ngủ. Bóp cò đi thì biết.”
McCoy bóp cò. Không sai chút nào, khi không có tiếng nổ, hắn quẳng khẩu súng xuống sườn núi rồi vừa lăn xả vừa chửi thề vào địch thủ.
Bàn tay phải của Sheppard vung lên. Hồi bé, ông cũng đi săn bồ câu trong vùng núi non Jamaica. Không phải bằng súng, dĩ nhiên. Mà bằng đá.
Nay ông ném đá vẫn giỏi. Đã ném là trúng.
No comments:
Post a Comment